Khảo sát ban đầu về ảnh hưởng của mô hình nhượng quyền xã hội Alive and Thrive và chiến dịch truyền thông đại chúng
Việt Nam đã đạt được những cải thiện đáng kể về tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em. Tuy nhiên, suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn còn là một vấn đề của y tế công cộng Việt Nam. Một phần ba trẻ em dưới 5 tuổi hiện đang còi cọc, và gần 1/5 (17,5%) bị thiếu cân (Điều tra của Viện Dinh Dưỡng 2010). Nuôi con bằng sữa mẹ không đúng và thực hành cho ăn bổ sung nghèo dinh dưỡng được cho là nguyên nhân chính của suy dinh dưỡng và cần cải thiện tình trạng dinh dưỡng trong những nhóm quần thể này.
FHI 360 (trước đây, Học viện phát triển giáo dục) thông qua mối quan hệ đối tác với Tổ chức Cứu trợ trẻ em (SC), GMMB, Viện nghiên cứu chính sách lương thực và thực phẩm quốc tế (IFPRI) và Đại học California, Davis là quản lý quỹ Bill & Melinda Gates dự án Alive & Thrive (A&T). A&T được triển khai trong 5 năm (2009-2013) để cải thiện trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ (IYCF) thực hành tăng tỷ lệ việc bú sữa mẹ hoàn toàn (EBF) và cho con ăn bổ sung (CF).
Tại Việt Nam, A&T hợp tác với Bộ Y tế, Viện Dinh Dưỡng, Hội phụ nữ và chính quyền tỉnh để tăng gấp đôi tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn, nâng cao chất lượng và số lượng thức ăn bổ sung và giảm tỷ lệ còi cọc 2% mỗi năm. A&T nhằm mục đích đạt được những mục tiêu thông qua sự kết hợp của 3 chiến lược bao gồm sự tham gia chính sách, mô hình nhượng quyền xã hội và sự tham gia của khu vực tư nhân.
Mô hình nhượng quyền xã hội được thực hiện mạnh mẽ tại 15 tỉnh của Việt Nam – bao gồm cả khu vực nông thôn và thành thị. Ngoài ra, chiến lược truyền thông đại chúng được thiết kế bởi A&T có tiềm năng để tiếp cận khán giả ở khu vực bên ngoài của các xã có mô hình nhượng quyền.
Nghiên cứu được triển khai nhằm đánh giá sự đóng góp của dự án A&T (nhượng quyền và truyền thông) trong việc nâng cao việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ và thực hành cho ăn bổ sung bằng cách so sánh thực hành của họ trước và sau khi thực hiện. Nghiên cứu cũng xem xét tác động của việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng một đơn lẻ so sánh với tác động khi sử dụng kết hợp hỗ trợ tư vấn từ mô hình nhượng quyền xã hội A&T. Bên cạnh đó, khảo sát ban đầu cũng cung cấp thông tin chung về tình trạng dinh dưỡng quốc gia và thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh trong các tỉnh dự án A&T.
Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2011, ISMS cộng tác với A&T tổ chức đánh giá ban đầu tại 11 tỉnh có can thiệp để thu thập dữ liệu cở sở cho nghiên cứu đánh giá tác động.
Mục tiêu
Các mục tiêu của đánh giá là:
- Thiết lập các chỉ số cốt lõi IYCF trong khu vực dự án đối với những tiến bộ có thể đo lường được.
- Xác định mức độ mà phương tiện truyền thông đại chúng có thể tăng cường tỷ lệ của việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ.
- Khám phá tác động trong sự kết hợp của mô hình nhượng quyền và truyền thông về kiến thức nuôi trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ và thực hành của các bà mẹ.
Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu ban đầu được tiến hành tại 11 tỉnh bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa, Dak Lak, Dak Nông, Tiền Giang và Cà Mau. Mặc dù các hoạt động của A&T đang được triển khai tại 15 tỉnh nhưng trước đó khảo sát ban đầu đã được hoàn thành tại 4 tỉnh (Thái Nguyên, Thanh Hóa, Quảng Ngãi và Vĩnh Long) tháng 6-8/2011; do đó, nghiên cứu này bỏ qua các tỉnh này, và đánh giá chỉ được tiến hành ở 11 tỉnh còn lại.
Thiết kế nghiên cứu và phương pháp
Nghiên cứu sử dụng một thiết kế chọn mẫu cụm ngẫu nhiên với cơ sở và điều tra cuối kỳ. Nghiên cứu được tiến hành với cả nhóm can thiệp (nhượng quyền) và không can thiệp. Phương pháp gồm 3 giai đoạn lấy mẫu được sử dụng. Các huyện đã được chọn vào giai đầu tiên, cụm xã (Đơn vị mẫu cơ sở - PSU) được chọn vào giai đoạn thứ 2, sau đó phụ nữ có con dưới 2 tuổi ở mỗi PSU được chọn ngẫu nhiên vào giai đoạn 3.
Phỏng vấn mặt đối mặt dựa trên bộ câu hỏi cấu trúc là phương pháp thu thập số liệu chính được sử dụng trong nghiên cứu này. Bộ câu hỏi được quản lý cùng với số liệu về nhân trắc (đo lường về cân nặng và chiều cao) của bà mẹ và con được thu thập bởi các các điều tra viên được tập huấn. Thu thập số liệu được tiến hành từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2011. Tổng số mẫu là 11,046 bà mẹ có con dưới 2 tuổi.
Kết quả từ ISMS
ISMS đã xuất bản báo cáo thực địa đó mà đầu ra là phương pháp chọn mẫu, thủ tục lấy mẫu, quản lý và thực hiện thu thập số liệu. Những thách thức, bài học kinh nghiệm và những khuyến nghị cũng được thảo luận trong báo cáo này.
Các nghiên cứu viên của ISMS là những người xử lý số liệu, quản lý và phân tích. Số liệu từ nghiên cứu được sử dụng để đánh giá tác động của mô hình A&T. Đánh giá cuối kỳ sẽ được tiến hành sau 3 năm dự án được triển khai. Sau khi hoàn thành phân tích dữ liệu, báo cáo cuối cùng sẽ được viết và trình sang A&T. Nghiên cứu dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 9/2011
Tài trợ và đối tác
Nghiên cứu này được tiến hành cho Viện nghiên cứu Lương thực và Thực phẩm quốc tế cho dự án A&T và được tài trợ bởi quỹ Bill & Melinda Gates.